Dr Wee Siew Bock
Bác sĩ ngoại tổng quát
Nguồn: Shutterstock
Bác sĩ ngoại tổng quát
Bác sĩ Wee Siew Bock, bác sĩ phẫu thuật vú tại Bệnh Viện Mount Elizabeth, giải đáp các câu hỏi và mối bận tâm về phẫu thuật bảo tồn vú.
Phẫu thuật bảo tồn vú, hay phẫu thuật cắt bỏ u vú, nhắc đến phương pháp điều trị ung thư vú bằng cách chỉ loại bỏ phần tuyến vú có chứa khối ung thư, từ đó bảo tồn phần còn lại của tuyến vú khỏe mạnh.
Việc bảo tồn tuyến vú trong phẫu thuật là điểm để phân biệt phương pháp này với phẫu thuật cắt bỏ vú, khi toàn bộ tuyến vú sẽ bị loại bỏ. Hiện tại, phẫu thuật cắt bỏ u vú luôn luôn đi kèm với phương pháp xạ trị lên tuyến vú còn lại, và cách thức điều trị kết hợp giữa phẫu thuật và xạ trị này tạọ nên phương pháp phẫu thuật bảo tồn vú.
Phẫu thuật bảo tồn vú nên được xem xét bất cứ khi nào có thể loại bỏ hoàn toàn ung thư vú trong khi bảo tồn hình dạng thẩm mỹ của tuyến vú. Kích thước của khối ung thư so với kích thước tổng thể của tuyến vú, và vị trí cũng như mức độ lan tỏa của khối ung thư bên trong tuyến vú, là các yếu tố quan trọng cần cân nhắc. Sự sợ hãi và lo âu của bệnh nhân về việc giữ lại tuyến vú sau khi điều trị ung thư cũng là một yếu tố khác quyết định liệu phương pháp này có nên được thực hiện hay không.
Lợi ích lớn nhất từ phẫu thuật bảo tồn vú là loại bỏ nỗi sợ về việc biến dạng và mất đi tuyến vú như một phần của quá trình điều trị ung thư. Điều này cho phép bệnh nhân phản ứng và chấp nhận đúng cách hơn đối với bất kỳ phương pháp điều trị nào cần thiết trong tương lai, và mang đến tác động tích cực cho sự phục hồi cảm xúc của bệnh nhân.
Một lợi ích thường bị bỏ qua của phẫu thuật bảo tồn vú là giữ lại sự nhạy cảm của tuyến vú bình thường, yếu tố đóng góp rất lớn vào việc khôi phục niềm tin và sức khỏe tinh thần của bệnh nhân sau khi điều trị.
Các rủi ro liên quan đến phẫu thuật là thấp vì thủ thuật này thường là một thủ thuật ngắn được thực hiện dưới gây mê toàn thân, được thực hiện trong ngày hoặc kèm theo kỳ nằm viện ngắn. Nhiễm trùng vết thương và vết thương hồi phục kém thường không phổ biến. Các tác dụng phụ liên quan đến xạ trị như đau nhức và sưng tuyến vú còn dư ít khi xảy ra, và tương đối nhẹ nhàng.
Sự phục hồi sau phẫu thuật phụ thuộc vào lượng vú bị loại bỏ (trực tiếp liên quan đến kích thước khối ung thư), và mức độ phẫu thuật cần thiết để làm đầy phần khuyết và nặn phần vú còn lại để tương đồng với tuyến vú khỏe mạnh còn lại. Nhìn chung, việc hồi phục khá nhanh, và mất khoảng 2-3 tuần.
Mặc dù vậy, bệnh nhân thường đứng dậy và đi lại được vào ngày sau phẫu thuật, và trải qua cơn đau nhức nhẹ có thể quản lý bằng thuốc giảm đau uống. Thông thường, với băng vết thương chống thấm nước, bệnh nhân cũng có thể tắm rửa vào ngày sau phẫu thuật. Sẹo da thường lành lại sau khoảng 10 ngày.
Xạ trị sử dụng phương pháp điều trị bức xạ là cần thiết để làm giảm cơ hội tái phát ung thư. Liệu pháp này thường diễn ra từ 3 đến 6 tuần, và là một hình thức điều trị ngoại trú với ít, và đồng thời có thể quản lý dễ dàng tác dụng phụ.
Các phương pháp điều trị ung thư xa hơn như hóa trị hoặc/và thuốc kháng hoóc-môn sẽ được tiến hành phụ thuộc vào các đặc điểm của ung thư và/hoặc sự lan tỏa tới hạch bạch huyết. Những thông tin này thu thập được sau khi thực hiện phẫu thuật cắt bỏ u không chắc sẽ thay đổi tính an toàn của hình thức phẫu thuật này.
Đánh giá cẩn thận mức độ lây lan của ung thư bên trong tuyến vú mang tầm quan trọng tối cao trong phẫu thuật bảo tồn vú. Trước khi phẫu thuật, sự đánh giá được thực hiện với xét nghiệm lâm sàng và các phương thức chuẩn đoán hình ảnh phù hợp cho tuyến vú như nhũ ảnh và siêu âm tuyến vú. Việc lập kế hoạch phẫu thuật bảo tồn vú chỉ có thể tiến hành sau một quá trình đánh giá kỹ lưỡng như vậy.
Đối với các phụ nữ đã được xem xét là phù hợp cho phẫu thuật bảo tồn vú, việc xác nhận với phương pháp phân tích bệnh học rằng các mô khỏe mạnh xung quanh ung thư không chứa tế bào ung thư là hết sức quan trọng.
Một lớp đệm mô vú không chứa tế bào ung thư là sự đảm bảo tốt nhất rằng không có bất kỳ tế bào ung thư nào còn sót lại trong tuyến vú được bảo tồn.
Sau khi ung thư được loại bỏ, thử thách lớn nhất trong phẫu thuật bảo tồn vú là việc làm sao có được hình dạng giống nhau cho tuyến vú sau phẫu thuật với tuyến vú khỏe mạnh còn lại.
Hình dạng lý tưởng của một tuyến vú sau phẫu thuật cắt bỏ u là hình dạng tự nhiên và tương đồng với tuyến vú bên kia. Nhìn chung, chênh lệch thể tích từ 10 - 15% giữa hai bên là chấp nhận được vì một cặp vú có kích thước ngang nhau là hình ảnh hiếm gặp trong tự nhiên.
Vì vậy, phẫu thuật bảo tồn vú đòi hỏi quá trình lập kế hoạch cẩn thận bằng cách che giấu sẹo tại các vùng kín đáo hoặc các nếp gấp tự nhiên. Hình dạng độ nhô cuối cùng của tuyến vú cũng được đưa vào xem xét trong giai đoạn lên kế hoạch thực hiện thủ thuật nhằm đạt được mục tiêu giống nhau giữa hai bên.
Việc một phụ nữ trải qua quá trình phẫu thuật tái tạo sau khi phẫu thuật bảo tồn vú là không phổ biến. Trong một vài trường hợp phẫu thuật bảo tồn vú khi đầu vú phải được loại bỏ do ung thư nằm ở vị trí trung tâm tuyến vú, phẫu thuật tái tạo đầu vú với phương pháp xăm hình có thể được đề nghị sau khi xạ trị để 'hoàn thiện' về mặt hình dạng. Đôi khi, khi các khiếm khuyết do sẹo (vùng lõm) xuất hiện sau khi đã hồi phục, sau khi xạ trị, hoặc sau quá trình lão hóa, việc lấp đầy các khiếm khuyết như vậy có thể được thực hện với liệu pháp cấy mỡ.
Sau khi hồi phục từ các hệ quả tức thời của xạ trị, tuyến vú được phẫu thuật cắt bỏ u không đòi hỏi bất kỳ sự chăm sóc đặc biệt nào. Lời khuyên tốt nhất có thể dành cho các phụ nữ là tiếp tục lối sống bình thường với việc tập thể thao đều đặn.
Mặc dù khả năng này thấp, nhiều phụ nữ vẫn sẽ lo ngại về việc tái phát ung thư tại tuyến vú được điều trị, Điều quan trọng là nhận thức được các rủi ro và đặc điểm của việc tái phát ung thư vú sau phẫu thuật là không khác với bất kì loại ung thư vú mới nào.
Việc giám sát thường xuyên với các xét nghiệm lâm sàng và phương thức chuẩn đoán hình ảnh cho tuyến vú là quan trọng. Điều này sẽ được khuyên và lên lịch bởi bác sĩ phẫu thuật.