Dr Tay Lik Wui Edgar
Bác Sĩ Nội Tim Mạch
Nguồn: Getty Images
Bác Sĩ Nội Tim Mạch
Bên cạnh mái tóc điểm bạc, thiên hướng chọn một lối sống điềm tĩnh hơn và trân quý hơn những thứ tốt đẹp hơn trong cuộc sống, tuổi tác có thể đánh dấu sự hiện diện của tuổi già lên cơ thể theo những cách chúng ta không nhận thấy.
Một trong những vị trí này là quả tim, nơi sự hao mòn sau nhiều năm bơm máu khắp cơ thể sẽ khiến cho mạch máu và động mạch của chúng ta yếu đi. Tập thể dục thường xuyên và một chế độ dinh dưỡng cân bằng lành mạnh có thể hỗ trợ ngăn ngừa bệnh tim, nhưng các quy trình kiểm tra sức khỏe định kỳ là cực kỳ quan trọng trong việc phát hiện sớm các vấn đề, khi điều trị có thể đạt hiệu quả cao nhất.
Bác sĩ Edgar Tay, bác sĩ khoa tim mạch tại Bệnh Viện Mount Elizabeth thảo luận về các tình trạng bệnh tim do thoái hóa thường gặp, cùng các thủ tục xâm lấn tối thiểu để điều trị những bệnh này.
Bệnh tim thoái hóa (do hao mòn) rất phổ biến.
Bệnh nhân thường đi tìm sự trợ giúp khi cảm thấy khó chịu ở vùng ngực, hơi thở ngắn, hoặc khi một buổi kiểm tra sức khỏe cho thấy bất thường trong biểu đồ điện tim hoặc X-quang ngực. Người khác có thể được giới thiệu sau quá trình phát hiện các âm thanh khác biệt ở tim, được gọi là tiếng thổi trong tim, trong suốt khi bác sĩ gia đình thăm khám bằng ống nghe.
Các van tim điều khiển dòng chảy của máu trong tim. Các van này có thể bị thoái hóa theo thời gian do các lắng đọng canxi hoặc sợi cứng. Điều này khiến các van bị cứng lại và giới hạn dòng chảy phía trước của máu (hẹp van tim - stenosis), hoặc không thể đóng chặt lại dẫn đến tình trạng máu chảy ngược (hở van tim - regurgitation).
Ba loại bệnh van tim phổ biến nhất là hẹp van đại động mạch, hở van hai lá và hở van ba lá.
Van đại động mạch là 'cánh cửa' đầu tiên kiểm soát dòng chảy của máu thoát ra khỏi tim, và hẹp van đại động mạch (AS) xảy ra khi đường dẫn máu bị giới hạn, giảm thiểu lượng máu đến được các cơ quan quan trọng trong cơ thể. Nếu không được điều trị, AS có triệu chứng và ở mức nghiêm trọng có thể liên kết với nguy cơ tử vong cao hơn, lên đến 50% trong vòng 2 năm.
Van hai lá điều hướng dòng máu từ ngăn trên trái xuống ngăn dưới trái của tim. Trong trường hợp hở van hai lá (MR), sẽ có hiện tượng máu chảy ngược do van hai lá không thể đóng chặt.
Hở van ba lá (TR) là hiện tượng rò rỉ tại van nằm giữa ngăn trên phải và dưới phải của tim. Các dấu hiệu nhận biết bao gồm sưng tấy ở chân và bụng.
Các bệnh thoái hóa quan trọng khác bao gồm rung nhĩ (nhịp tim không đều liên kết với đột quỵ), cũng như bệnh mạch vành.
Cho đến gần đây, lựa chọn duy nhất dành cho bệnh van tim là phẫu thuật mở tim.
Trong khi phẫu thuật vẫn là lựa chọn quan trọng với bệnh nhân, nhiều người thích lựa chọn ít xâm lấn hơn.
Với hẹp van đại động mạch, giờ đây, chúng tôi cung cấp một phương pháp điều trị ít xâm lấn mang tên gọi TAVI (cấy van động mạch chủ qua ống thông), và thủ thuật này có thể thực hiện với việc gây mê và gây tê tại chỗ. Thủ tục bao gồm việc đưa vào một thiết bị stent qua các động mạch ở chân và tiến vào van tim bị hư hại. Sau đó, stent được bung mở để giảm tình trạng tắc nghẽn và cải thiện dòng chảy của máu.
TAVI hiện nay được sử dụng rộng rãi đối với bệnh nhân mắc chứng AS, và nó cũng được dùng để điều trị bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật và những van tim phẫu thuật đã bị hao mòn sau vài năm. Những van tim cũ này thực sự có thể được trao một cuộc đời mới sử dụng công nghệ này.
Một thủ tục xâm lấn tối thiểu gọi là TEER (sửa van tim qua ống thông từ mép này sang mép kia), có thể được sử dụng để điều trị những bệnh nhân phù hợp. Thủ tục này bao gồm việc đưa vào một clip cực nhỏ vào tim, sẽ chụp chặt và siết các mép của van tim để giảm thiểu tình trạng rò rỉ. Các nghiên cứu nghiêm ngặt đã chứng minh sự an toàn và hiệu quả của thủ tục đối với bệnh nhân phù hợp. Công nghệ G4 hiện nay đã có mặt tại các bệnh viện IHH Healthcare Singapore.
Công nghệ tương tự này cũng đang được ứng dụng trong điều trị hở van ba lá. Nếu kẹp van ba lá không phù hợp, bệnh nhân có thể được điều trị bằng việc cấy stent bicaval - cấy ghép tĩnh mạch chủ đôi). Thủ tục này bao gồm việc cấy hai stent có van trong tĩnh mạch để đưa máu quay trở lại tim. Các stent có van bảo vệ cơ quan thoát khỏi áp lực và thể tích của hở van ba lá, và có thể cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.
Đốt thông cao tần qua ống thông thường là phương pháp được khuyến nghị để điều hòa các nhịp tim bất thường. Theo thời gian, đốt thông trường xung, một dạng đốt thông mới sử dụng các trường điện để phá bỏ các mô tim, sẽ bổ sung vào loạt lựa chọn điều trị hiện có cho bệnh nhân.
Đốt thông trường xung cũng làm ngắn lại thời gian thủ tục, và giảm thiểu các rủi ro điển hình, như viêm nhiễm và chảy máu, có thể phát sinh trong suốt các quy trình y tế. Các nghiên cứu cũng cho thấy kết quả khả quan hơn, chẳng hạn như giảm thiểu tỷ lệ tử vong, đột quỵ, suy tim và hội chứng mạch vành cấp tính, khi đốt thông được tính đến trong giai đoạn sớm của bệnh đối với bệnh nhân.
Bệnh nhân rung nhĩ cũng cần có thuốc chống đông máu (thuốc làm loãng máu) để phòng ngừa đột quỵ. Bệnh nhân không dung nạp được các loại thuốc này (ví dụ, do thuốc chống đông máu gây ra biến chứng xuất huyết) có thể cân nhắc tắc tiểu nhĩ trái qua da để giảm thiểu rủi ro đột quỵ.
Những tiến bộ to lớn đã đạt được trong việc đánh giá và điều trị CAD, xảy ra khi có sự tích tụ mảng bám và các lắng đọng canxi khác (các tổn thương gây tắc nghẽn) trong các động mạch vành.
Các tổn thương gây tắc nghẽn như vậy hiện nay có thể được đánh giá sử dụng các dây dẫn có khả năng phát hiện chênh lệch áp suất trước và sau vùng gây tổn thương. Điều này cho phép bác sĩ tim mạch xác định liệu các tổn thương nhất định có nên được điều trị với phương pháp tạo hình mạch vành hay đặt stent. Thêm vào đó, những tiến bộ trong khả năng chụp ảnh mạch vành sử dụng siêu âm hoặc chụp cắt lớp quang học có thể tối ưu hóa thủ tục đặt stent, dẫn đến kết quả tốt hơn.
Khi phát hiện các tổn thương canxi hóa rất nặng, các thiết bị mới hơn như sốc sóng xung kích tán sỏi có thể phá vỡ các tổn thương này và hỗ trợ hoạt động đặt stent thành công.
Bệnh nhân thường vẫn cần dùng thuốc sau khi một thủ tục phẫu thuật van tim được thực hiện thành công. Đây có thể là các thuốc chống tiểu cầu hoặc thuốc chống đông máu (nếu bệnh nhân cũng mắc các vấn đề về nhịp tim).
Bệnh nhân rung nhĩ sẽ phải tiếp tục dùng thuốc, chẳng hạn như thuốc chống đông máu, theo liệu pháp đốt thông trong một khoảng thời gian giới hạn. Ở bệnh nhân đã thực hiện thủ thuật tắc tiểu nhĩ trái, thuốc (ví dụ như thuốc chống tiểu cầu hoặc thuốc chống đông máu) thường được cai dần sau khi thiết bị được cấy ghép thành công, và tiểu nhĩ được đóng kín.
Phần lớn các phương pháp điều trị được cá nhân hóa và được hiệu chỉnh với tình trạng cụ thể của bệnh nhân bởi bác sĩ tim mạch.
Điều trị xâm lấn tối thiểu, đúng như tên gọi, gây ra ít tổn thương hơn cho các mô trong suốt quá trình điều trị. Điều này chuyển thành lượng máu bị mất ít hơn, thời gian nằm viện ngắn hơn, từ đó chất lượng cuộc sống cao hơn. Nên chú ý rằng phẫu thuật truyền thống vẫn có những điểm mạnh riêng.
Tôi khuyến nghị tất cả bệnh nhân thực hiện như sau:
Giảm Thiểu Rủi Ro Mắc Các Vấn Đề Về Tim Khác Điều này bao gồm có một chế độ dinh dưỡng ít muối và chất béo bão hòa, và cai thuốc lá nếu có thói quen hút thuốc.
Bệnh Nhân Nên Đăng Ký Vào Một Chương Trình Phục Hồi Chức Năng Tim (CR) Chính Thức. Sự giám sát của một đội ngũ bác sĩ, y tá, nhà vật lý trị liệu thể dục, chuyên gia dinh dưỡng và/ hoặc nhà vật lý trị liệu là có lợi đối với quá trình phục hồi của bệnh nhân, trong khi CR có thể cải thiện khả năng vận động, chất lượng cuộc sống và tiên lượng hồi phục.
Kiểm tra sàng lọc bệnh về tim là quan trọng. Có thể bắt đầu từ năm 18 tuổi (sau đó lặp lại mỗi 5 năm một lần).
Kiểm tra sàng lọc bao gồm chia sẻ bệnh sử của bản thân, nhận được một buổi thăm khám sức khỏe, và được kiểm tra các yếu tố nguy cơ như cao huyết áp, cholesterol, và tiểu đường. Điện tâm đồ (ECG) có thể được khuyến nghị cho một số cá nhân được chọn, chẳng hạn như những người mắc cao huyết áp.
Việc khám sức khỏe phải được chú trọng, do các bệnh van tim thường tạo ra các tiếng tim bất thường được phát hiện dễ dàng với ống nghe. Chuẩn đoán tiếp theo được thực hiện với siêu âm tim. Nếu phát hiện mạch đập không đều, một điện tâm đồ có thể được thực hiện để xác nhận tình trạng rung nhĩ. Xét nghiệm CT chỉ số canxi cũng có thể được cân nhắc cho một số bệnh nhân nhằm phát hiện bệnh mạch vành.
Nếu một tình trạng bệnh van tim được xác định, các buổi tái khám diễn ra mỗi 3 - 5 năm cho các trường hợp nhẹ, mỗi 1 - 2 năm cho các trường hợp mức độ vừa, và mỗi 3 - 6 tháng cho các trường hợp nặng.
Hội Đồng Thăng Tiến Sức Khỏe Singapore cũng khuyến nghị một xét nghiệm gắng sức cho những cá nhân có các yếu tố nguy cơ sau:
Tìm hiểu thêm về các lựa chọn kiểm tra sàng lọc tim có sẵn tại Bệnh Viện Mount Elizabeth tại đây, hoặc đặt lịch hẹn để gặp bác sĩ tim mạch để được tư vấn về bất kỳ quan ngại nào bạn có thể có về trái tim tại đây.