-
-
Khu vực chăm sóc và điều trị
Bệnh tim bẩm sinh (CHD) nghĩa là các khuyết tật tim có từ khi mới sinh ra.
Những khuyết tật này ảnh hưởng đến cấu trúc và chức năng của tim.
Chúng có mức độ nặng khác nhau. Các khuyết tật nhẹ bao gồm các bệnh trạng như một lỗ hở nhỏ trong tim, và những khuyết tật nặng và đe dọa tính mạng có thể liên quan đến các cấu trúc bị thiếu. Những khiếm khuyết này có thể ảnh hưởng đến cách máu chảy qua tim và đến những phần còn lại của cơ thể.
Theo hệ thống đăng ký dị tật bẩm sinh của Singapore, bệnh tim bẩm sinh là tình trạng tồn tại ở 0,81% tổng số các trường hợp sinh con còn sống từ năm 1994 − 2000.
Trên toàn quốc, có khoảng 12.000 người trưởng thành chung sống với bệnh tim bẩm sinh. Với trung bình 37.000 – 40.000 em bé sinh ra mỗi năm, ước tính số ca người lớn sẽ tăng thêm 300 – 320 mỗi năm.
Có nhiều loại bệnh tim bẩm sinh.
Thông liên nhĩ
Đối với bệnh trạng này, có một lỗ hở trên thành ngăn cách giữa hai buồng phía trên của tim, có thể dẫn đến tổn thương các mạch máu trong phổi. Nếu lỗ hở này không tự đóng, có thể cần phải phẫu thuật.
Nếu không được điều trị, bệnh trạng này có thể gây ra các vấn đề ở tuổi trưởng thành như huyết áp cao trong phổi, nhịp tim bất thường, tăng nguy cơ đột quỵ và suy tim.
Thông liên thất
Bệnh này liên quan đến một lỗ hở trong tim nằm giữa thành (vách ngăn) ngăn cách các buồng phía dưới của tim (tâm thất).
Lỗ hở này chuyển hướng máu giàu oxy từ bên trái sang bên phải của tim, gửi máu này trở lại phổi thay vì phân phối đến phần còn lại của cơ thể.
Hẹp eo động mạch chủ
Trong bệnh này, một phần của động mạch chủ hẹp hơn bình thường do sự phát triển không bình thường khi mang thai.
Đây là một khuyết tật tim bẩm sinh nguy hiểm; nếu bị thu hẹp nhiều, có thể cần phẫu thuật ngay sau khi sinh.
Tứ chứng Fallot
Bệnh này bao gồm 4 khiếm khuyết trong tim và mạch máu của tim:
Dị tật còn ống động mạch
Khi sinh, việc có một lỗ hở giữa hai mạch máu chính đi ra từ tim là điều bình thường. Lỗ này thường tự đóng sau khi sinh. Dị tật còn ống động mạch (PDA) được chẩn đoán khi lỗ này không tự đóng.
Lỗ hở nhỏ có thể không cần điều trị nhưng lỗ hở lớn sẽ cho phép máu không giàu oxy lưu thông sai hướng. Điều này làm suy yếu cơ tim và có thể dẫn đến các biến chứng và suy tim.
Bệnh không lỗ van động mạch phổi
Trong bệnh này, máu không thể chảy từ tâm thất phải đến phổi, bởi vì van động mạch phổi bị thiếu. Đây là một khuyết tật tim bẩm sinh nguy hiểm có thể cần phẫu thuật ngay sau khi sinh.
Hẹp động mạch phổi hoặc động mạch chủ
Đây là tình trạng hẹp của van động mạch phổi và động mạch phổi chính. Đây là một trong bốn khiếm khuyết được phân loại theo tứ chứng Fallot.
Chuyển vị động mạch lớn
Trong khiếm khuyết hiếm gặp này, hai động mạch chính đi ra khỏi tim bị đảo ngược. Điều này thay đổi cách máu lưu thông qua cơ thể và dẫn đến việc máu ít oxy được bơm đi khắp cơ thể. Đây là một khuyết tật tim bẩm sinh nguy hiểm.
Nhiều khuyết tật tim bẩm sinh không có các triệu chứng rõ ràng.
Tuy nhiên, khuyết tật tim bẩm sinh nghiêm trọng hoặc nhiều khuyết tật bẩm sinh có thể gây ra các triệu chứng như:
Những triệu chứng này phụ thuộc vào loại và mức độ nặng của CHD.
Nguyên nhân của các bệnh tim bẩm sinh hầu như không được biết rõ.
Một số yếu tố nguy cơ có liên quan đến sự xuất hiện bệnh tim bẩm sinh, bao gồm các bất thường nhiễm sắc thể, khiếm khuyết di truyền và các yếu tố môi trường.
Các bệnh di truyền và nhiễm sắc thể bao gồm:
Các yếu tố môi trường và tiếp xúc với một số chất nhất định trong những tuần đầu của thai kỳ khi tim của em bé đang hình thành có thể làm tăng nguy cơ em bé bị bệnh tim bẩm sinh.
Các yếu tố nguy cơ trong môi trường bao gồm:
Bệnh tim bẩm sinh có thể dẫn đến các biến chứng kéo dài suốt đời và các bệnh liên quan.
Các biến chứng này bao gồm tăng nguy cơ mắc:
Không có cách nào đảm bảo để ngăn ngừa sự phát triển của các bệnh tim bẩm sinh.
Tuy nhiên, phụ nữ mang thai có thể giảm nguy cơ bằng cách tránh các yếu tố nguy cơ đã biết và thực hiện một số biện pháp phòng ngừa:
Để biết thêm thông tin, vui lòng gọi
+65 6575 7575
Để đặt lịch hẹn, vui lòng dùng WhatsApp
+65 8111 9777